Giấy dó Kẻ Bưởi: Một thời ‘phồn vinh’ đất Thăng Long

Kẻ Bưởi trước đây được biết đến như một khu vực nổi tiếng của Hà Nội với nghề làm giấy dó. Dù đã trải qua nhiều biến cố lịch sử và nghề làm giấy dó không còn đáp ứng được nhu cầu của thị trường, trong tâm trí của người dân nơi đây, ký ức về những tờ giấy dó của ngày xưa vẫn còn vẹn nguyên và chưa phai nhạt.

Một thời phồn vinh

Vùng Kẻ Bưởi xưa nổi tiếng với nghề làm giấy, gồm ba làng Yên Thái, Hồ Khẩu, Đông Xã, trong đó giấy dó lụa từ làng Yên Thái được biết đến rộng rãi nhất. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, nghề giấy dó tại đây đã có lịch sử lâu đời: “Đình làng Yên Thái được xây dựng từ năm 1127. Theo truyền thống của người xưa, nghề làng luôn có từ trước khi đình được xây.”

Âm thanh của tiếng chày giã dó vang vọng của người thợ xưa đã trở thành nét đặc trưng của làng cổ bên bờ hồ Tây, được lưu truyền trong ca dao và ghi dấu trong ký ức của người dân Hà Nội: “Mịt mù khói tỏa ngàn sương/ Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.”

Cụ Vũ Thị Thiết (91 tuổi) là một trong những người cuối cùng ở làng Yên Thái còn giữ được kiến thức về quy trình sản xuất giấy dó. Dù tuổi đã cao, cụ vẫn minh mẫn và ánh mắt sáng rỡ khi chia sẻ về nghề truyền thống mà cụ từng gắn bó. Cụ Thiết cho biết, quá trình làm giấy dó truyền thống gồm nhiều bước, không quá phức tạp nhưng đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mỉ của người thợ.

Nguyên liệu chính để làm giấy là vỏ cây dó bầu từ Yên Bái, được ngâm nước lã cho đến khi vỏ trở nên trong suốt, sau đó ủ vôi tảng và hấp cách thủy trong lò nung. Lúc này, vỏ cây có hai lớp, một đen một trắng, người thợ sẽ bóc vỏ và phân loại. Lớp vỏ trắng được giã nhuyễn thành bột và sàng lọc để loại bỏ mảnh vỏ đen. Bột giấy được đổ vào tàu seo để khuấy hòa tan vào nước, cùng với chất phụ gia là nhớt của cây mò giúp tạo độ kết dính. Điều này đảm bảo rằng các tờ giấy khi lấy ra khỏi bàn seo dù ướt vẫn có thể chồng lên nhau mà không bị dính.

Công đoạn seo giấy là một trong những bước quan trọng nhất trong quy trình sản xuất giấy thủ công. Công việc này đòi hỏi sự tỉ mỉ và cẩn trọng của người phụ nữ. Cụ Vũ Thị Thiết hồi tưởng rằng những phụ nữ ở làng Yên Thái phải làm việc bên tàu seo hàng giờ, đôi tay chìm trong bể nước dù mùa đông lạnh giá. Cụ còn nhắc đến câu ca dao quen thuộc của những cô gái làm giấy vùng Bưởi: “Tàu seo nước giá như đông/ Tay đưa liềm giấy mà lòng nhớ ai/ Nhớ người tuổi ngoại đôi mươi/ Da xanh mai mái miệng cười đưa duyên”.

Sau khi seo, chồng giấy ướt được mang đi ép để loại bỏ nước. Dù trông đơn giản, công đoạn này đòi hỏi kinh nghiệm làm nghề. Người Yên Thái tận dụng gốc cây lớn để ép giấy, đục vào thân cây làm điểm tựa và xếp chồng giấy cùng đá tảng từ từ để tăng áp lực mà không làm rách giấy. Quá trình ép thường kéo dài từ 6-7 giờ để giấy khô hoàn toàn. Cuối cùng là phơi và sấy khô giấy. Sản phẩm giấy dó làng Yên Thái sau khi hoàn thiện được phân phối khắp Hà Nội và các vùng lân cận.

Cụ Vũ Thị Thiết chia sẻ rằng quá trình làm giấy dó trước đây rất vất vả, làm việc từ 6 giờ sáng đến tận 4 giờ sáng hôm sau mới nghỉ. Chính vì vậy, giấy dó lụa Yên Thái được ưa chuộng bởi độ mịn, mỏng và bền, có thể bảo quản hàng trăm năm mà không hư hại.

Người dân làng Yên Thái tự hào về việc bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh được in trên giấy dó vùng Bưởi, bìa bóc kép 6 lần, giấy ruột bóc kép 3 lần. Làng cũng vinh dự được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghé thăm trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên năm 1946. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, giấy dó làng Yên Thái góp phần phục vụ kháng chiến.

Để “nhịp chày Yên Thái” vang mãi

Sự tiến bộ khoa học kỹ thuật và nhu cầu thị trường thay đổi đã khiến nghề làm giấy dó ở Yên Thái dần dần mai một. Hiện nay, làng đã không còn ai tiếp tục nghề làm giấy dó. Những người thợ từng gắn bó với nghề, như cụ Vũ Thị Thiết, giờ đã ở độ tuổi cao niên. Người dân Yên Thế vẫn không khỏi bùi ngùi khi nghĩ về thời hoàng kim của nghề làm giấy dó đã trôi vào dĩ vãng.

Bà Hồ Thúy Lan, cán bộ văn hóa phường Bưởi cho biết, chính quyền địa phương luôn coi trọng việc bảo tồn di tích lịch sử và phát huy các giá trị truyền thống của vùng đất. Tuy nhiên, việc khôi phục nghề làm giấy thủ công là rất khó khăn. Thiếu hụt thợ lành nghề và chi phí phục hồi cao là những rào cản chính. Ngoài ra, việc thiếu thị trường tiêu thụ giấy dó khiến việc phục hồi nghề này trở nên khó khăn hơn. Đây là một trong những động lực quan trọng nhất để người dân quyết tâm khôi phục nghề.

Phường Bưởi đang thực hiện giải pháp tích hợp việc giới thiệu nghề truyền thống vào chương trình giáo dục để đối phó với nguy cơ nghề làm giấy dó biến mất khỏi ý thức của người dân địa phương. Trong những năm gần đây, Trường Tiểu học Đông Thái (Tây Hồ, Hà Nội) đã chú trọng dạy lịch sử địa phương, trong đó có nghề làm giấy dó Yên Thái. Bà Nguyễn Thị Thùy Dung, Phó Hiệu trưởng trường Tiểu học Đông Thái, cho biết: “Nhà trường đặt mục tiêu thông qua các tiết học và buổi trải nghiệm thực tế nhằm giúp học sinh có nhận thức về việc bảo vệ và gìn giữ di tích lịch sử, đồng thời tự hào về truyền thống quê hương.”

Sự khó khăn của các nghề thủ công truyền thống trong việc theo kịp thời đại là điều đáng tiếc, nhưng gần như là điều không thể tránh khỏi. Trong bối cảnh này, cả người thợ và quản lý cần tìm ra những hướng đi mới cho các làng nghề. Công tác giáo dục và truyền thông cũng cần được tăng cường, không chỉ trong các trường học mà còn nên mở rộng trên quy mô lớn hơn. Nhờ vậy, những giá trị văn hóa tốt đẹp được bồi đắp qua hàng trăm, hàng ngàn năm sẽ được bảo tồn.

Cảm ơn bạn đã đọc bài tổng hợp của ISAO

Nguồn: sohuutritue.net.vn