Tranh dân gian Đông Hồ – Nét thăng trầm lịch sử

Nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ, với hơn năm thế kỷ lịch sử, đã để lại dấu ấn sâu sắc và đặc trưng trong văn hóa dân gian của Việt Nam. Việc bảo tồn, tôn vinh và phát triển nghề làm tranh dân gian Đông Hồ hiện nay là một ưu tiên cấp thiết.

Hành trình lịch sử

Làng Đông Hồ, ngày nay thuộc thôn Đông Khê, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nằm bên bờ Nam của sông Đuống, với cảnh quan lãng mạn và thân thiện. Ngoài nghề sản xuất tranh dân gian truyền thống, làng Đông Hồ vẫn giữ được hết vẻ đẹp đặc trưng của một làng quê Việt Nam.

Tranh Đông Hồ bao gồm nhiều thể loại và đề tài đa dạng như tranh thơ, tranh về sinh hoạt hàng ngày, tranh lịch sử, tranh vẽ theo các câu chuyện dân gian và cảnh vật. Thường thì tranh Đông Hồ được in bằng nhiều màu sắc khác nhau, mỗi màu sẽ là một bản khắc.

Các màu sắc trong tranh thường được chiết xuất từ thiên nhiên: màu trắng từ vỏ con điệp, màu đỏ từ sỏi son trên đồi núi, màu vàng từ hoa hoè, và màu đen từ lá tre… Giấy in thường là giấy dó, được làm từ vỏ cây dó thu hái từ rừng.

Về lịch sử của dòng tranh Đông Hồ, nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, người đã đóng góp vào việc bảo tồn nghệ thuật này, cho biết: ‘Dựa trên tư liệu của các cụ để lại, nghề làm tranh Đông Hồ đã tồn tại từ thế kỷ 16 và đã kéo dài hơn 500 năm. Cho đến nay, không ai biết đến người sáng lập làng nghề này. Tất cả những tinh hoa của nghệ thuật dân gian này đã được lưu truyền qua các thế hệ của các nghệ nhân từ thời kỳ này sang thời kỳ khác, từ thế kỷ này sang thế kỷ khác.

Trước năm 1944, dòng tranh này đã trải qua một thời kỳ phát triển vô cùng thịnh vượng. Lúc đó, làng Đông Hồ có hai nghề chính: vẽ tranh để bán vào dịp Tết và làm vàng mã. Trước Cách mạng tháng Tám, làng tranh Đông Hồ luôn sôi động, với tới 17 dòng họ cùng tham gia vào nghề làm tranh.

Thường thì từ tháng Giêng đến Rằm tháng Bảy âm lịch, cả làng tập trung vào nghề làm vàng mã. Từ tháng 8 đến cuối năm âm lịch, làng lại chuyển sang làm tranh để bán vào dịp Tết’.

Với sự đa dạng về mẫu mã, thể loại và chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh đa chiều cuộc sống xã hội, từ phong tục, tập quán hàng ngày đến tinh thần văn hóa của người dân Việt Nam trên vùng đồng bằng sông Hồng.

Sau hàng trăm năm phát triển và trưởng thành, tranh dân gian Đông Hồ đã trở thành một phần không thể thiếu trong tinh thần sống của nhiều thế hệ người dân Việt Nam.

“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

Trong một thời gian dài, nghề làm tranh Đông Hồ đã trải qua thời kỳ suy tàn, và hiện nay chỉ còn có 2-3 hộ gia đình trong làng duy trì hoạt động. Đối mặt với nguy cơ mất mát của nghề truyền thống, gia đình của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã không ngần ngại chi ra kinh phí để thu gom hàng nghìn bản khắc và khuôn tranh quý từ những gia đình không còn tiếp tục nghề.

Thêm vào đó, gia đình của nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã đầu tư xây dựng Trung tâm lưu giữ và bảo tồn tranh Đông Hồ, bao gồm khu vực sản xuất giấy, khu in tranh, khu làm vỏ con điệp và khu trưng bày sản phẩm để phục vụ du khách.

Hiện tại, Trung tâm này là nơi lưu giữ và bảo tồn tranh Đông Hồ lớn nhất cả nước, là điểm đến quen thuộc của những người yêu thích tranh dân gian này. Ngoài ra, đây cũng là địa điểm mà du khách có thể tới để học cách vẽ tranh và khám phá về nghề truyền thống của địa phương.

Trong những năm qua, các nghệ nhân luôn tận tụy truyền đạt nghề tranh cho con cháu và những người quan tâm. Hiện nay, thế hệ kế cận của họ tiếp tục sáng tạo, kế thừa di sản từ ông bà và giữ gìn các mẫu tranh dân gian truyền thống, đồng thời tạo ra nhiều mẫu tranh mới phù hợp với thị trường.

Bên cạnh những nỗ lực của các nghệ nhân, cũng cần kể đến sự hỗ trợ từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc Ninh. Đề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Đông Hồ” đã được phê duyệt vào tháng 6/2014, nhằm thể hiện giá trị của tranh Đông Hồ, đồng thời nhấn mạnh tình trạng và nguy cơ mai một của dòng tranh này.

Hiện tại, hồ sơ “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” đã được hoàn thiện để đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là một trong những nỗ lực của Bắc Ninh và cả nước Việt Nam để bảo tồn và giữ gìn dòng tranh này trước nguy cơ mất mát.

Với sự hợp tác từ chính quyền và các nghệ nhân, chắc chắn làng Đông Hồ cùng với tranh dân gian Đông Hồ sẽ tìm được hướng đi để bảo tồn và phát triển giá trị di sản này ngày càng tốt hơn.

Với sự độc đáo và ý nghĩa của mình, ta có thể hy vọng rằng nghề làm tranh dân gian Đông Hồ sẽ sớm được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Một ngày không xa, tranh Đông Hồ sẽ tái sinh và rực rỡ như những thời kỳ hoàng kim của nó, góp phần làm nên nét đặc trưng của văn hóa Việt Nam, như những lời thơ của Hoàng Cầm: ‘Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp’.

Cảm ơn bạn đã đọc bài tổng hợp của ISAO

Nguồn: sohuutritue.net.vn