Nâng tầm giá trị từ khai thác chỉ dẫn địa lý nước mắm ‘Nam Ô’ hiệu quả

Việc lập hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho nước mắm “Nam Ô” ở Đà Nẵng không chỉ giúp bảo vệ tài sản trí tuệ mà còn mở ra cơ hội mở rộng giá trị kinh tế cho sản phẩm này. Đồng thời, điều này cũng giúp đẩy mạnh vai trò của món ngon này trong việc truyền tải văn hóa ẩm thực và thúc đẩy phát triển du lịch địa phương.

Sau khi Trung tâm Tiết kiệm Năng lượng và Tư vấn Chuyển giao Công nghệ Đà Nẵng (DECC) lập hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho sản phẩm nước mắm “Nam Ô”, việc khai thác và bảo vệ tài sản trí tuệ này đã trở thành một vấn đề quan trọng mà các hộ sản xuất và kinh doanh đều quan tâm.

Khai thác giá trị nhân văn để nâng tầm sản phẩm

Vào những ngày đầu tháng 3, khi sóng biển dịu dàng và trời biển trở nên trong xanh hơn, cảm giác của “bà già đi biển” càng trở nên thú vị hơn. Bình minh len lỏi trong ngày rằm tháng hai âm lịch là lúc tiếng nhạc lễ hội cầu ngư ở làng Nam Ô vang lên, mời gọi những ngư dân và những con người con của làng từ xa về thăm quê hương và tưởng nhớ tiền nhân.

Những người cao tuổi đại diện cho cả cộng đồng biểu dương việc nhận được mưa thuận gió hòa, là điều may mắn cho ngư dân khi ra khơi. Họ biểu dương vùng đất phát triển, với khí hậu và đất đai đặc biệt tạo điều kiện cho việc sản xuất đặc sản nước mắm từ cá cơm than và muối Sa Huỳnh/Cà Ná, được xem như “mật” của biển nổi tiếng, nuôi dưỡng và phát triển qua bao thế hệ.

Ông Trần Ngọc Vinh – Chủ tịch Hội Làng Nghề Nước Mắm Truyền Thống Nam Ô – với 30 năm làm việc trong việc tổ chức lễ hội, đã cống hiến để bảo tồn di sản văn hóa của làng. Khi nghe tin rằng Sở Khoa học và Công nghệ, DECC đã nộp hồ sơ đăng ký chỉ dẫn địa lý cho làng nước mắm, ông cảm thấy mừng mừng vì thương hiệu của làng được công nhận và bảo vệ, không để bị lạm dụng hoặc chiếm đoạt danh tiếng mà làng đã xây dựng.

Ông Vinh chia sẻ: “Chúng tôi hy vọng rằng trong tương lai, lễ hội cầu ngư sẽ phát triển lớn mạnh hơn, và trẻ em sẽ được dạy hát bài trạo. Đồng thời, chúng tôi muốn tăng cường nhận thức của cộng đồng về trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ uy tín và chất lượng của sản phẩm. Chúng tôi cũng muốn đào tạo một đội ngũ hướng dẫn viên địa phương để giới thiệu lịch sử, di tích và sản phẩm của làng nghề cho du khách. Hơn nữa, chúng tôi mong muốn hợp tác với các khu du lịch cộng đồng biển khác để đưa sản phẩm nước mắm Nam Ô ra xa hơn”.

Dù trải qua nhiều biến động lịch sử, nhiều di tích như giếng Chăm, lăng Cá Ông, miếu thánh mẫu Liễu Hạnh vẫn còn đọng lại ở Nam Ô – ngôi làng cổ dưới chân đèo Cu Đê. Đặc biệt, làng này nổi tiếng với những món ẩm thực đặc trưng, có hương vị đặc biệt từ nước mắm, như gỏi cá, cháo chờ… mỗi khi thưởng thức là một trải nghiệm khó quên.

“Không chỉ là một loại gia vị, nước mắm còn là một phần của lịch sử và văn hóa, chứa đựng những tri thức dân gian của cộng đồng địa phương tại vùng đất có sông, có biển thuộc hai phường Hòa Hiệp Nam và Hòa Hiệp Bắc (quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng)”, TS Vũ Thị Bích Hậu – Chủ nhiệm nhiệm nhiệm vụ – nhấn mạnh.

Giá trị nhân văn của sản phẩm này, từng được vua chúa đánh giá cao từ thế kỷ 18, còn được thể hiện qua nhiều câu ca dao, câu thơ phản ánh cuộc sống tinh thần của người dân: “Nước mắm Nam Ô thơm nồng / Đi đâu cũng nhớ hương quê nhà” hoặc những dòng thơ miêu tả hình ảnh những người làm mắm: “Mắm Nam Ô nặng gánh vai gầy / Mẹ nghe rất nhẹ vì thơm dậy”.

Thứ chất lỏng màu cánh dán, bật nắp ra cho mùi thơm lan tỏa. Vị mặn mòi đầu lưỡi, sau đó lại len lỏi vị ngọt êm dịu. Hương vị đó mang làng nghề Nam Ô nhỏ bé lên ngang tầm với các tên tuổi nước mắm Phan Thiết, Phú Quốc.

Vào ngày 27/9/2019, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận nghề làm nước mắm Nam Ô là di sản phi vật thể quốc gia. Điều đó là niềm tự hào của cộng đồng làng chài và là động lực để tiếp tục giữ vững danh tiếng và giá trị thương hiệu.

Tuy nhiên, thời gian không ngừng trôi và làng nước mắm không tránh khỏi những thay đổi theo thời đại. Với các dự án di dời để xây dựng các khu nghỉ dưỡng, cùng với sự xuất hiện của các sản phẩm nước mắm công nghiệp trên thị trường, giá bán của nước mắm truyền thống Nam Ô vẫn còn khá trẻ so với thương hiệu nên nhiều người làm mắm đã rời xa làng, xa nghề. Do đó, diện tích sản xuất giảm đi đáng kể và số lượng hội viên làng nghề cũng giảm từ 100 hội viên xuống còn 60 hội viên.

Thực tế cho thấy, nhiều ngôi làng, địa danh đã tận dụng ngành du lịch và điện ảnh để quảng bá văn hóa. Trong khi đó, Nam Ô đã được ghi lại trong phim ngắn Le Village de Namo của hãng Lumière, được công chiếu năm 1900 tại Pháp, chỉ sau 1 năm máy quay ra đời.

Đạo diễn Lưu Trọng Ninh, người đặc biệt quan tâm đến việc bảo tồn những ngôi làng truyền thống, đã thực hiện nhiều dự án khôi phục không gian nông thôn Việt như làng Vượt (Hòa Bình), bản Lướt (Sơn La). Ông cho rằng: “Rất khó để biến Nam Ô thành một phim trường lớn vì điều đó đòi hỏi rất nhiều tiền bạc và nhân lực. Tuy nhiên, có thể tạo ra một không gian kỷ niệm về Nam Ô xưa”

“Nếu muốn tái hiện toàn bộ ngôi làng như thời xưa, có lẽ không thể thực hiện được. Tuy nhiên, chỉ cần tái tạo thành công một góc nhỏ, một ký ức hoài niệm của làng, sẽ đủ để thu hút sự quan tâm và đầu tư từ nhiều người, và lan tỏa ra nhiều hơn. Góc nhỏ đó, nắm bắt được vẻ đẹp truyền thống trên bến dưới thuyền của làng nghề nước mắm xưa, sẽ có khả năng lôi cuốn du khách.” Đạo diễn Lưu Trọng Ninh chia sẻ và cam kết sẽ hỗ trợ ý tưởng này.

Giá trị nhân văn của sản phẩm nước mắm Nam Ô chỉ thực sự được khai thác khi biết cách quảng bá và tiếp cận đúng cách, từ đó tạo ra nguồn thu nhập bổ sung cho cộng đồng. Đồng thời, việc triển khai Đề án Bảo tồn làng nghề nước mắm Nam Ô, kết hợp với phát triển du lịch TP Đà Nẵng với kinh phí gần 4.7 tỷ đồng, sẽ tạo ra hiệu ứng kết hợp tích cực, giúp nước mắm Nam Ô có cơ hội tái lập vị thế trong thị trường.

Gia tăng giá trị kinh tế, nâng cao thu nhập

Lần đầu tiên, TP Đà Nẵng đưa ra đề xuất về một nhiệm vụ cấp quốc gia, đồng thời tập trung vào công tác quản lý và phát triển chỉ dẫn địa lý, nhằm tạo lòng tin cho người tiêu dùng. Việc này giúp nâng cao giá trị và củng cố thương hiệu của nước mắm Nam Ô, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp và cơ sở sản xuất khỏi hàng giả, hàng nhái và nâng cao tính cạnh tranh so với các sản phẩm khác.

Các giám đốc của Hợp tác xã trong làng nghề nước mắm truyền thống cho biết rằng việc đăng ký chỉ dẫn địa lý đã được mong chờ từ lâu bởi những người dân yêu mến và làm mắm. Tuy nhiên, họ cũng lo lắng về sự hiểu biết và khả năng khai thác, bảo vệ tài sản trí tuệ của làng nghề.

“Mong muốn sẽ có các khóa đào tạo, hướng dẫn để bà con trong làng nghề biết cách bảo vệ và khai thác tài sản trí tuệ của mình”, một giám đốc Hợp tác xã nước mắm truyền thống Nam Ô chia sẻ. Hiện nay, các hội viên trong làng nghề vẫn tuân thủ theo tiêu chí sản xuất truyền thống “4 không”: không sử dụng hóa chất, không chất tạo màu, không chất tạo mùi và không chất bảo quản.

Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng, Lê Thị Thục, cho biết: “Hiện nay, Sở Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng đang phối hợp cùng các sở ban ngành thành phố thực hiện nhiều hoạt động đặc biệt, đặc biệt là các hoạt động chuyên môn nhằm hỗ trợ phát triển làng nghề nước mắm Nam Ô.”

Các nhiệm vụ về khoa học và công nghệ đóng góp vào sự phát triển của làng nghề bao gồm: Nghiên cứu và xây dựng chuỗi cung ứng nước mắm an toàn cho nước mắm Nam Ô được triển khai bởi Viện Khoa học xã hội vùng Trung Bộ dưới sự chủ nhiệm của PGS.TS Vũ Tuấn Hưng. Đề tài khác là nghiên cứu một số giải pháp để nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm nước mắm Nam Ô, do Trung tâm Công nghệ sinh học Đà Nẵng chủ trì và TS Phạm Châu Huỳnh làm chủ nhiệm đề tài. Đặc biệt, trong việc quan tâm đến vấn đề môi trường, DECC đã chủ trì thực hiện đề tài “Nghiên cứu xử lý bã thải mắm để sản xuất phân bón hữu cơ cho cây trồng tại làng nghề nước mắm Nam Ô, TP Đà Nẵng” do KS Nguyễn Đức Huỳnh làm chủ nhiệm.

Sở Khoa học và Công nghệ Đà Nẵng cũng cho biết, trong thời gian tới, Sở sẽ tiếp tục quan tâm đến việc nâng cao năng lực của đội ngũ sản xuất, đặc biệt là đội ngũ kế nghiệp. Sẽ tiếp tục hỗ trợ đào tạo và nâng cao kiến thức về chỉ dẫn địa lý, quản lý thương hiệu cộng đồng để tăng giá trị sản phẩm cho các hội viên trong làng nghề. Các hoạt động sẽ bao gồm việc xây dựng bộ nhận diện thương hiệu như logo, tem nhãn, bao bì để quảng bá sản phẩm.

Qua đó, sẽ xây dựng hệ thống quy chế quản lý, liên kết trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, cũng như hỗ trợ tiếp cận các kênh thương mại để mở rộng thị trường.

Hội làng nghề nước mắm Nam Ô cũng cần tăng cường liên kết giữa các hội viên, tham gia vào các hiệp hội truyền thống và tham gia triển lãm sản phẩm có quyền sở hữu trí tuệ, sản phẩm OCOP để nâng cao vị thế và quảng bá sản phẩm. Đồng thời, việc phát triển làng nghề kết hợp với phát triển du lịch sẽ đóng góp vào việc quảng bá sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý nước mắm Nam Ô.

Tại làng nghề ngày hôm nay, nhiều đơn vị đã và đang tiên phong trong việc cải tiến sản phẩm từ bao bì, nhãn hàng hóa cho đến những sản phẩm phục vụ đa dạng hơn để đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trẻ.

“Chúng tôi đồng thời đề xuất việc xây dựng giáo trình kỹ thuật làm nước mắm truyền thống Nam Ô, cùng việc dạy nghề cho lớp trẻ. Tôi mong muốn có một khu trưng bày sản phẩm cho hội viên, và được tạo điều kiện thuê đất ngay tại Nam Ô để du khách có thể đến tham quan và mua sắm”, ông Trần Ngọc Vinh – Chủ tịch Hội làng nghề nước mắm truyền thống Nam Ô – chia sẻ.

Nước mắm truyền thống, được xem như là quốc hồn, quốc túy của Việt Nam, sẽ mang lại cuộc sống tươi đẹp cho người dân nơi đây. Hy vọng trong những năm tới, với sự hỗ trợ từ chỉ dẫn địa lý, đặc sản của làng Nam Ô sẽ mở ra thế giới, quy mô sản xuất sẽ mở rộng, và thu nhập từ nghề nghiệp sẽ được nâng cao.